U nang tuyến giáp là tình trạng thay đổi cấu trúc, thậm chí là chức năng vùng của tuyến giáp, tạo thành một hoặc nhiều khối riêng biệt trong lòng tuyến này. U tuyến giáp xuất hiện ở 4-7% dân số (chủ yếu là phụ nữ).
Bạn đang đọc: Chẩn đoán và điều trị u tuyến giáp như thế nào cho hiệu quả?
U nang tuyến giáp là tình trạng thay đổi cấu trúc, thậm chí là chức năng vùng của tuyến giáp, tạo thành một hoặc nhiều khối riêng biệt trong lòng tuyến này.
U tuyến giáp là gì?
U tuyến giáp gồm 2 loại: U nang tuyến giáp đơn nhân (chỉ có 1 nhân) và đa nhân (gồm 2 hoặc nhiều nhân). Người ta thường chỉ sờ thấy các nhân lớn, nằm gần bề mặt; còn các nhân nhỏ có đường kính dưới 1 cm rất khó để phát hiện khi khám bằng tay, cần phải áp dụng phương pháp siêu âm.
Các nhân này có thể phát triển từ vùng của tuyến giáp bị viêm hoặc từ phần còn sót lại của tuyến này sau phẫu thuật. Một số trường hợp một thùy tuyến giáp bị teo bẩm sinh, thùy còn lại bị phì đại để bù trừ và từ đó phát triển thành nhân giáp… Hầu hết các nhân là đặc, 15-25% là u nang chứa dịch (có thể là nang nước bẩm sinh hoặc nang được tạo thành sau vì thế chảy máu nhân giáp, ung thư tuyến giáp thoái hóa).
Biểu hiện của u tuyến giáp
Biểu hiện của bệnh u nang tuyến giáp thường nghèo nàn, thậm chí không xuất hiện triệu chứng. Vì vậy, rất ít trường hợp do chính bệnh nhân phát hiện. Nếu phát hiện là lúc nhân đã lớn, nhìn rõ bên ngoài. Đa số trường hợp được phát hiện khi khám bệnh (bác sĩ sờ vùng trước cổ thấy một hoặc nhiều khối ở 1 hoặc 2 bên, kích thước đa dạng).
Tìm hiểu thêm: Tuyến vú phát triển như thế nào ở nữ giới?
Biểu hiện của bệnh u nang tuyến giáp thường nghèo nàn, thậm chí không xuất hiện triệu chứng.
Đa số các nhân tuyến giáp ở dạng nằm im, không hoạt động vì thế người bệnh thường không có biểu hiện cường năng hoặc nhược năng tuyến giáp. Tuy nhiên, nếu nhân phát triển lớn, nó có thể dẫn đến chèn ép tại chỗ, làm nguời bệnh khó nuốt, nuốt vướng, có cảm giác tắc nghẹn hoặc nói khàn, thay đổi giọng nói,… Một số ít trường hợp, nhân tuyến giáp tăng hoạt động, sản xuất ra quá nhiều hoóc môn giáp, khiến người bệnh có các biểu hiện cường giáp mệt, gầy sút, tim đập nhanh, sợ nóng, ra nhiều mồ hôi.
Chẩn đoán u tuyến giáp
Để chẩn đoán u tuyến giáp, ngoài việc khám lâm sàng, người bệnh cần làm xét nghiệm hoóc môn giáp, siêu âm tuyến giáp. Siêu âm giúp xác định vị trí, kích thước và số lượng nhân, đặc biệt là các nhân nhỏ; phân biệt nhân đặc với các nhân lỏng. Tuy nhiên, phương pháp này không có khả năng phân biệt các nhân đó là lành tính hay ác tính.
Để xác định u giáp là lành tính hay ác tính, cần thực hiện thủ thuật chọc kim nhỏ vào các nhân, lấy mẫu mô đem soi dưới kính hiển vi để tìm tế bào ác tính. Các trường hợp ác tính chỉ chiếm gần 5% số ca u tuyến giáp. Người bệnh chủ yếu là trẻ em, người trẻ tuổi, nam giới, người từng bị chiếu xạ vào vùng đầu, cổ, ngực hoặc có người thân từng mắc ung thư tuyến giáp.
Điều trị u tuyến giáp
Việc điều trị u tuyến giáp tùy thuộc vào chẩn đoán nhân lành hay ác tính, u đặc hay lỏng và kích thước của nhân. Mỗi loại u giáp có phương pháp điều trị khác nhau.
– Nhân lành tính: Nếu nhân có kích thước nhỏ (đường kính 1-2 cm) có thể không cần điều trị, chỉ theo dõi, hẹn tái khám và chọc xét nghiệm tế bào định kỳ. Khi phát hiện tế bào ung thư hoặc thấy nhân to lên nhanh, có thể bác sĩ sẽ chỉ định phẫu thuật.
Với nhân có kích thước trung bình (đường kính 2-3 cm), có thể điều trị bằng hoóc môn giáp L-T4 ít nhất 6 tháng, sau đó đánh giá lại kết quả. Nếu nhân nhỏ đi (thường là các nhân lành tính), sẽ tiếp tục cho người bệnh điều trị và theo dõi. Còn nếu nhân to lên hoặc không nhỏ đi, có thể tiến hành phẫu thuật.
>>>>>Xem thêm: Viêm tụy cấp nguy hiểm như thế nào?
Siêu âm giúp xác định vị trí, kích thước và số lượng nhân, đặc biệt là các nhân nhỏ
Với nhân có kích thước lớn (trên 4 cm) hoặc có chèn ép, cần điều trị phẫu thuật.
– Nhân ác tính hoặc nghi ngờ ác tính: Nên phẫu thuật sớm và cắt toàn bộ tuyến giáp.
– Nhân lỏng (chứa dịch): Cần chọc hút hết dịch, sau đó chọc lại để xét nghiệm tế bào. Khoảng 50% trường hợp, các nang nước tự biến mất sau khi chọc hút dịch một vài lần. Các u nang thường lành tính, tuy nhiên nếu có kích thước lớn (đường kính trên 4 cm) thì nên phẫu thuật.
Nếu nhân tuyến giáp lành tính có thể tự thoái triển và nhỏ đi. Còn hầu hết, các nhân này tiến triển rất chậm, họ vẫn có thể chung sống hòa bình với nó, nhưng phải được giám sát đều đặn.
Hiện nay, nhiều bệnh nhân u tuyến giáp tìm đến các ông lang và được điều trị bằng cách dán cao tại chỗ. Tuyệt đại đa số không khỏi bệnh, nhiều người còn bị loét và nhiễm trùng chỗ dán, nguy hiểm đến tính mạng.
Lưu ý, các thông tin trên chỉ dành cho mục đích tham khảo và tra cứu, không thay thế cho việc thăm khám, chẩn đoán hoặc điều trị y khoa. Người bệnh cần tuân theo hướng dẫn của bác sĩ, không tự ý thực hiện theo nội dung bài viết để đảm bảo an toàn cho sức khỏe.