Bệnh võng mạc trẻ đẻ non là bệnh lý phổ biến ở những trẻ sinh non, tuổi thai dưới 33 tuần tuổi. Lý do dẫn đến tình trạng này là do võng mạc thường hình thành ở tuần 16 đến 40 của thai kỳ. Trong khí đó, ở trẻ đẻ non các mạch máu võng mạc chưa hoàn thiện dẫn đến ảnh hưởng võng mạc và thị lực. Cùng Thu Cúc TCI tìm hiểu những điều cần biết về bệnh võng mạc trẻ sinh non nhé.
Bạn đang đọc: Những điều cần biết về bệnh võng mạc trẻ đẻ non
1. Bệnh lý võng mạc trẻ đẻ non là gì?
Bệnh võng mạc trẻ đẻ non (ký hiệu ROP) chính là tình trạng rối loạn gây tăng sinh mạch máu xảy ra ở trẻ sinh non. Bởi trong quá trình tạo mạch máu võng mạc không được hoàn chỉnh. Những trẻ nhẹ cân (dưới 1,25kg) và sinh non (dưới 33 tuần) hoặc có tiền sử thở oxy cao áp dài ngày rất dễ mắc bệnh.
ROP được nằm trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra mù lòa tại rất nhiều quốc gia trên thế giới. Thậm chí đến nay, nhiều quốc gia đã đưa ROP vào chương trình tầm soát cho bé sơ sinh đẻ non. Mỗi quốc gia sẽ có tiêu chuẩn tầm soát cân nặng và tuổi của thai nhi phù hợp. Ví dụ tại Mỹ, tiêu chuẩn để tầm soát cân nặng khi sinh là 1500g và tuổi thai lúc sinh là 28 tuần tuổi. Tuy nhiên sau 1 thời gian triển khai tầm soát một số trẻ khi sinh có cân nặng và tuổi thai nằm ngoài 2 tiêu chuẩn trên mà vẫn bị bệnh. Do đó, nhiều quốc gia đặt lại tiêu chuẩn ROP theo đặc thù của nước mình. M số khác tầm soát cho các trẻ sinh non dưới 37 tuần.
Bệnh võng mạc ở trẻ sinh non là gì?
Tại Việt Nam, những trẻ sinh dưới 34 tuần và có cân nặng 1800g đều cần được tầm soát bệnh ROP.
2. Nguyên nhân và dấu hiệu bệnh võng mạc ở trẻ sinh non
2.1 Nguyên nhân
Tuần thứ 16 thai kỳ, mắt của bé bắt đầu phát triển các mạch máu võng mạc. Khi đó, các mạch máu võng mạc liên tục phát triển và tiến dần cạnh võng mạc, cũng cấp cả dinh dưỡng và oxy. Quá trình này sẽ nhanh hơn ở những tuần 12, cuối thai kỳ.
Tuy nhiên ở trẻ sinh non quá trình trên bị gián đoạn, mạch máu chưa kịp cấp đủ dinh dưỡng và oxy cho cạnh võng mạc dẫn đến trẻ bị mắc các bệnh lý võng mạc.
2.2 Dấu hiệu nhận biết
Ở giai đoạn sớm của bệnh võng mạc trẻ sinh non, rất khó phát hiện bệnh khi chỉ quan sát bằng mắt thường. Bệnh thường biểu hiện những triệu chứng khi đã sang giai đoạn nặng. Chính vì vậy, để phát hiện sớm bệnh ROP và điều trị hiệu quả, nên khám sàng lọc cho bé ngay sau khi sinh.
3. Các giai đoạn tiến triển của bệnh ROP
Bệnh lý võng mạc ở bé là bệnh bắt đầu chỉ với những thay đổi nhỏ ở mạch máu, rồi mới đến thay đổi lớn hơn. Thay đổi này ở vùng tiếp nối giữa võng mạc nơi mạch máu bình thường và nơi chưa có mạch máu. Cụ thể, tiến triển của ROP được chia thành 5 giai đoạn chính như sau:
Tìm hiểu thêm: Bệnh đau mắt thường gặp phổ biến và cách tránh
Các giai đoạn của bệnh lý võng mạc ở trẻ sinh non (minh họa)
3.1 Giai đoạn 1
Bắt đầu có đường ranh giới mỏng màu trắng, nơi ngăn cách giữa hai khu vực: nơi võng mạc đã hình thành mạch máu và nơi võng mạc vô mạch. Ở giai đoạn này, các mạch máu có thể tiếp tục phát triển mức bình thường. Dù vậy, bác sĩ cần theo dõi chặt chẽ tình trạng thay đổi của trẻ.
3.2 Giai đoạn 2
Giai đoạn 2 này, khi đường ranh giới giữa khu vực võng mạc đã hình thành mạch máu. Tại khu vực võng mạc vô mạch thấy rõ hơn và dần phát triển khỏi bề mặt võng mạc. Bạn sẽ thấy chúng rộng và cao tạo nên một đường gờ màu trắng (nếu có ít mạch máu) hoặc màu hồng (nếu có nhiều mạch máu). Các búi mạch máu bất thường có rải rác sau gờ, dần tạo ra hình giống như ngô rang.
3.3 Giai đoạn 3
Giai đoạn 3, là lúc tăng sinh sợi mạch ngoài võng mạc. Từ bề mặt của gờ, các tổ chức xơ mạch bắt đầu tăng sinh. Sau đó, phát triển lan rộng ra ngay phía sau bề mặt võng mạc. Ngoài ra còn phát triển ra trước, tạo vuông góc với bình diện võng mạc vào bên trong dịch kính. Tình trạng ROP được chia theo các mức độ nhẹ, vừa và nặng. Điều này phụ thuộc vào mức độ tăng sinh của tổ chức xơ mạch vào bên trong dịch kính.
3.4 Giai đoạn 4
Khi tổ chức xơ phát triển mạnh mẽ lan vào trong buồng dịch kính sẽ gây nên tình trạng co kéo võng mạc. Điều này làm cho một phần võng mạc bị bong khỏi thành của nhãn cầu. Theo vị trí của võng mạc bong, có thể chia giai đoạn này ra làm hai phần là: 4A và 4B.
– Ở giai đoạn 4A: mắt lúc này chưa bị tổn hại nhiều về chức năng. Vì tình trạng bong ở võng mạc chưa lan tới các vùng hoàng điểm.
– Ở giai đoạn 4B: mắt bị ảnh hưởng và giảm chức năng rõ rệt. Biểu hiện bong võng mạc rộng hơn và lan tới chỗ võng mạc vùng hoàng điểm.
3.5 Giai đoạn 5
Giai đoạn cuối này, bé bị bong võng mạc toàn bộ. Chỗ võng mạc bị bong sẽ cuộn lại và có dạng hình phễu. Có ba loại phễu có thể kể đến là: phễu mở, phễu đóng, phễu trước đóng sau mở.
4. Biến chứng nguy hiểm ở bệnh võng mạc trẻ sinh non
Ở tình trạng nhẹ, dù bệnh đã được chữa khỏi và ổn định, tương lai trẻ vẫn có thể mắc tật khúc xạ hoặc lé. Nhưng ba mẹ cũng không cần lo lắng vì những trường hợp này bác sĩ sẽ theo dõi và điều chỉnh khi bé được 1-2 tuổi.
>>>>>Xem thêm: Mắt bị lồi có chữa khỏi được không?
Biến chứng nguy hiểm của bệnh ROP ở trẻ (minh họa)
Ngoài ra khi, bệnh võng mạc trẻ sinh non ở tình trạng nặng, việc điều trị sẽ rất khó. Hậu quả để lại là bé sơ sinh có thể bị mù. Một số loạn sản phổi – phế quản gặp phải ở bé sinh quá sớm, suy hô hấp. Chưa hết, ROP còn có thể tiến triển thành nhiễm trùng, thiếu máu, vàng da thể nặng.
5. Cách điều trị ROP như thế nào?
Đối với bệnh nhân là bé sơ sinh đẻ non, nên phát hiện và điều trị càng sớm càng tốt. Phương pháp điều trị võng mạc trẻ sinh non hiệu quả là điều trị bằng laser quang đông. Phương pháp này sẽ loại bỏ vùng võng mạc không có mạch máu ở tầm ngoại vi. Điều này giúp giảm nếp gấp võng mạc và tình trạng bong võng mạc.
Tuy nhiên trước khi điều trị bằng laser quang đông, phải đảm bảo trẻ ổn định. Nhất là trẻ khi đang mắc các bệnh viêm phổi, suy hô hấp hoặc thiếu máu,… Cần cho trẻ nhịn ăn trước 3-4 tiếng. Đồng tử cũng được yêu cầu giãn tốt bằng Mydrin-P để điều trị hiệu quả.
Hy vọng những thông tin về khái niệm, nguyên nhân, cách chưa về bệnh võng mạc trẻ đẻ non hữu ích với bạn đọc. Các mẹ cũng cần chăm sóc sức khỏe bản thân tốt tránh nguy cơ sinh non. Mẹ cũng nên tiêm phòng đủ các loại vắc xin cần thiết trước mang thai nhằm bảo vệ trẻ trước bệnh ROP nhé.
Lưu ý, các thông tin trên chỉ dành cho mục đích tham khảo và tra cứu, không thay thế cho việc thăm khám, chẩn đoán hoặc điều trị y khoa. Người bệnh cần tuân theo hướng dẫn của bác sĩ, không tự ý thực hiện theo nội dung bài viết để đảm bảo an toàn cho sức khỏe.